Nghệ thuật Đương đại và Đương đại tính - (Phần 4)

Phần 4: Đương đại như Hiện Đại mới (2)

Các bộ phim thuật lại một câu chuyện ngụ ngôn phức tạp, khép kín. Lấy bối cảnh ở Sân vận động Bronco, Boise, Idaho, quê hương của nghệ sĩ, Cremaster 1 (1995) theo dõi một đoàn vũ công mang hình dạng của các tuyến sinh dục lưỡng tính tĩnh, tượng trưng cho tiềm năng thuần khiết. Cremaster 2 (1999), lấy bối cảnh ở Canada Rockies và Utah, kết nối ba chủ đề kéo theo sự chuyển động ngược thời gian: chuyển động của sông băng, câu chuyện của kẻ sát nhân Garry Gilmore và gã thoát ly Harry Houdini, và cuộc sống của những con ong mật. Cremaster 3 (2002) kết nối việc xây dựng Tòa nhà Chrysler với Tòa nhà Solomon và cung cấp bối cảnh cho một cuộc đụng độ leo thang giữa Hiram Abiff, kiến trúc sư của Đền thờ Solomon và Bậc thầy Xây dựng nguyên mẫu trong Masonic Order (do Serra thủ vai), và Người học nghề Mới vào (diễn bởi Barney) (hình minh họa). Vượt qua năm tầng của sự khởi đầu vào các nghi thức Masonic là động lực thúc đẩy tập phim này, cũng như phần tiếp nối (phụ đề The Order) trong đó Barney vượt qua các chướng ngại vật phức tạp ở mỗi tầng của tháp mái vòm Bảo tàng Guggenheim, mà chính chúng lúc này thành biểu tượng cho mỗi tập phim Cremaster cycle.

Poster quảng báo Cremaster Cycle, chuỗi phim bởi Matthew Barney

Lấy bối cảnh tại Isle of Man, Cremaster 4 (1994) dàn cảnh một cuộc đua xe máy giữa hai đội di chuyển theo hai hướng ngược nhau quanh vành đai của một hòn đảo gần như hình tròn, lần lượt đại diện cho cơ bìu khi đi lên thì chưa phân định giới tính nhưng nghiêng về hướng nữ tính, và cơ này khi đi xuống thì có khuynh hướng phân định giới tính và là nam tính. Tuy nhiên, hai đội được gắn kết với nhau một cách biểu tượng. Sự đi xuống cuối cùng đã đạt được ở Cremaster 5 (1997). Lấy bối cảnh ở Budapest – cầu Lánchíd (Chainlink), Nhà hát lớn, và Nhà tắm nước nóng Gellért – tác phẩm trình diễn, như thể trong một giấc mơ, cái chết được mong đợi, tuyệt vọng, và cuối cùng cũng đến của Queen of Chain (do Ursula Andress diễn) và Diva, Magician, và Giant của nàng (tất cả đều do Barney đóng).

Mặc dù có cấu trúc phức tạp và phong cách hậu hiện đại, đây là một câu chuyện về sự truy tìm, tìm kiếm sự thuộc về thông qua những địa điểm có mệnh lệnh riêng giữa các quá trình vật chất và xã hội, kỳ lạ thay, vốn là đối tượng của sự kết hợp và phân rã không ngừng, cô lập và biến chất. Mặc dù cập nhật hơn và gắn bó với văn hóa truyền thông, tác phẩm này đòi hỏi mối quan hệ với người xem cũng trực tiếp như trong tác phẩm của Serra. Điều này – Cremaster cycle tuyên bố – là những gì xảy ra trong kỷ nguyên của sự phân chia văn hóa và kỹ thuật di truyền. Cùng một tinh thần của cá nhân chiến đấu chống lại những khó khăn không thể lường trước để khuất phục tính cá thể và đạt được sự chấp nhận của cộng đồng, cùng một sự tích cực chủ động của sự thụ động tối thượng, làm nền tảng cho sự thành công của các tiểu thuyết và phim như Chúa tể của những chiếc nhẫn và số lượng thành viên đông đảo trên toàn thế giới của các tà giáo, các tôn giáo có tổ chức và các tổ chức công dân. Giống như họ, tinh thần này khiến cho Cremaster cycle vừa phi thường vừa tầm thường.

Hình cắt từ một cảnh trong tập phim Cremaster Cycle

Những tác phẩm như vậy cung cấp câu trả lời mạnh mẽ trước hết cho câu hỏi về bản chất của nghệ thuật trong thời đại này: nghệ thuật đương đại, với tư cách là một trào lưu, đã trở thành hiện đại mới hoặc, rốt cuộc cũng thế cả, rượu cũ trong bình mới. Trong các hình thức mang tính thể chế hóa cao nhất của nó — từ sự vươn xa thắng lợi của các chi nhánh toàn cầu của Bảo tàng Guggenheim thông qua sự sang trọng Bậc thầy Xưa của các tác phẩm sắp đặt tại Dia:Beacon đến cử chỉ bối rối trong các phòng trưng bày đương đại khi Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, New York, mở cửa trở lại vào năm 2004 — đó là giai đoạn mới nhất trong câu chuyện kéo dài một thế kỷ rưỡi của nghệ thuật hiện đại ở châu Âu và các thuộc địa văn hóa của nó, một sự tiếp nối của dòng dõi chủ nghĩa hiện đại, được lựa chọn cẩn thận nhất là trong nỗ lực duy trì sự cân bằng quyền lực văn hóa hiện tồn.

Nghệ thuật đương đại chính thức cộng hưởng với sự tự tin sống động và sự bế tắc dễ chịu đi kèm với nó, tự coi mình là phong cách văn hóa cao của thời đại. Hãy nghĩ (như phần đầu của danh sách những tác phẩm hay nhất) không chỉ tác phẩm của Serra và Barney mà còn của Jeff Koons ở tuổi 50, vùng đất tiêu dùng vị thành niên của Takashi Murakami và Mariko Mori, Mad Max: Beyond Thunderdome khác với Mad Max, The Matrix Revolutions, các bức tranh của Gerhard Richter, quy mô (tác phẩm) của Andreas Gursky, các chủ đề của Thomas Struth và phong cách của Thomas Demand, The Night Revels of Lao Li của Wang Quingsong bên cạnh China Mansion của ông, tác phẩm ban đầu của Damien Hirst nhưng không phải phong cách quảng cáo của Benneton trở lại trong các tác phẩm hội họa tại triển lãm The Elusive Truth! năm 2005 của ông, Tác phẩm I’ve Got It All! của Tracey Emin vân vân và vân vân, qua tất cả các cuộc triển lãm khảo sát lớn và đợt mua bán tác phẩm nghệ thuật đương đại mới nhất với giá kỷ lục (5).

The Night Revels of Lao Li của Wang Qingsong (Tạm dịch: Cuộc vui đêm của Lão Lý của Vương Thanh Tụng), 2000. 400 × 50cm. Cắt dán trên tấm mica.

Chẳng bao lâu nữa, sẽ có người có thể rửa tội cho “chủ nghĩa đương đại” —có lẽ là sự co lại của chủ nghĩa hiện đại đương đại — hoặc “chủ nghĩa tái hiện đại” — nhấn mạnh tính cải tạo và đệ quy của nó — cho đến sự khinh bỉ có thể đoán trước trước khi có được sự chấp nhận cuối cùng. Trong kiến ​​trúc, xung lực song song đã khôi phục lại một thương hiệu cũ: hiện đại hậu kỳ (6). Có lẽ, tốt hơn là không đặt tên cho nó: giống như tất cả các giá trị không thể xác định nhưng rất được ham muốn, nó trở nên mạnh mẽ hơn khi được coi là đương nhiên.

(Còn tiếp)

Đón đọc Phần 5: Lối đi giữa các nền văn hóa

(5) Về chủ đề này, xem bài viết “Primacy, Convergence, Currency: Marketing Contemporary Art in the Conditions of Contemporaneity” (phần 1 và 2) của tôi trên Art Papers 29 (tháng 05-06/2005): 22–27 và (tháng 07–08/2005): tr. 22–2

(6) Về thảo luận về kiến trúc đương đại song song với điều đó được đưa ra trong bài viết này xem thêm bài viết The Architecture of Aftermath của tôi (Chicago, 2006).

Người dịch: Út Quyên
Hình ảnh: Artplas
Nguồn: Contemporary Art and Contemporaneity

Cùng tác giả

#Tag

Artplas nghệ thuật nghệ thuật đương đại Series Nghệ thuật và ? Đương đại tính

iDesign Must-try

Những tác phẩm sắp đặt hoành tráng của Henrique Oliveira khám phá bản chất kỳ lạ của kiến ​​trúc
Những tác phẩm sắp đặt hoành tráng của Henrique Oliveira khám phá bản chất kỳ lạ của kiến ​​trúc
Nổi lên từ sàn nhà, ô cửa hay đồ nội thất, các tác phẩm nghệ thuật sắp đặt của nghệ sĩ Henrique Oliveira là thông điệp đáng chú ý về…
Nghệ thuật Đương đại và Đương đại tính - (Phần 2)
Nghệ thuật Đương đại và Đương đại tính - (Phần 2)
Trong hơn hai thập kỷ không ai thành công trong việc khái quát về nghệ thuật đương đại. Đầu tiên là mối lo sợ về chủ nghĩa bản chất, tiếp…
Nghệ thuật Đương đại và Đương đại tính - (Phần 1)
Nghệ thuật Đương đại và Đương đại tính - (Phần 1)
Nghệ thuật đương đại là một phần của cuộc đối thoại văn hóa liên quan đến các khuôn khổ bối cảnh lớn hơn như bản sắc cá nhân và văn…
Liệu Công nghệ có phục vụ Nghệ thuật hay không? - (Phần 3)
Liệu Công nghệ có phục vụ Nghệ thuật hay không? - (Phần 3)
Có thật là ta sắp tiến tới một thời đại không gian-thời gian mới, nơi những sản phẩm của ta sẽ hoàn toàn mang tính chân thực, đưa người xem…
Liệu Công nghệ có phục vụ Nghệ thuật hay không? (Phần 2)
Liệu Công nghệ có phục vụ Nghệ thuật hay không? (Phần 2)
Hiện nay, một số nền tảng cho phép người dùng số hóa và quốc tế hoá thị trường nghệ thuật.
Liệu Công nghệ có phục vụ Nghệ thuật hay không? (Phần 1)
Liệu Công nghệ có phục vụ Nghệ thuật hay không? (Phần 1)
Ngày nay, sự xuất hiện của nhiều loại công nghệ mới đã góp phần không nhỏ trong việc thay đổi mối quan hệ của ta với nghệ thuật.