Kịch nói miền Nam - quá trình hình thành, phát triển và vị thế trong giai đoạn hiện nay

Kịch nói là loại hình nghệ thuật của phương Tây, du nhập vào nước ta từ cuối Thế kỷ XIX. Nơi đầu tiên kịch nói đặt chân tới là Sài Gòn – mảnh đất được biết đến với sự năng động, cởi mở, thuộc khu vực Nam Bộ. Trải qua quá trình thích ứng với văn hóa, thăng trầm xã hội của Sài Gòn, kịch nói đến nay đã mang một phong vị riêng, để lại dấu ấn đặc sắc trên mảnh đất Sài Gòn và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của một bộ phận người dân nơi đây.

Kịch là thể loại đặc biệt, vừa thuộc lĩnh vực sân khấu, vừa thuộc lĩnh vực văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, kịch được hiểu theo hai cấp độ khác nhau, cấp độ loại hình và cấp độ loại thể. Ở cấp độ loại hình, kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Ở cấp độ loại thể, kịch (có thể hiểu là kịch nói hay thoại kịch) là một thể loại tồn tại bên cạnh các loại hình nghệ thuật sân khấu khác như kịch múa, kịch hát.

(Ảnh: Tư liệu)

Xung đột kịch

Có thể xem xung đột là khởi đầu của kịch. Người đầu tiên đưa ra lý thuyết xung đột kịch hoàn chỉnh là Hegel (trước đó Aristotle cũng đã nhắc đến nhưng chưa thực sự đầy đủ và rõ ràng, mang tính khu biệt). Sau đó, những tên tuổi gắn bó với lịch sử hình thành và phát triển của thể loại kịch như Stanislavski, Arthur Miller, … đã khẳng định vai trò của xung đột trong kịch.

Xung đột kịch phải được tổ chức trên cơ sở của phương thức điển hình hóa, nó bao gồm nhiều cặp phạm trù đối lập nhau. Xung đột kịch bắt nguồn từ những mâu thuẫn trong cuộc sống, những mâu thuẫn đó phải gay cấn và kịch tính, có chiều sâu mới trở thành xung đột và được thể hiện trên sân khấu.

Hành động kịch

Hành động trong kịch không chỉ thể hiện tính cách của nhân vật qua các cử chỉ, lời nói, động tác mà hành động còn biểu hiện cho sự cảm nhận và tư duy của nhân vật trước các tình huống xảy ra trong cốt truyện. 

Có hai loại hành động: hành động bên trong (là những yếu tố nội tâm, thường có sự thay đổi do sự tác động của xung đột kịch, tạo nên chiều sâu tâm lý cho nhân vật) và hành động bên ngoài (là điệu bộ, cử chỉ, động tác di chuyển, cách ăn nói… của nhân vật).

Ngôn ngữ kịch

Ngôn ngữ là thành phần đầu tiên của văn bản nghệ thuật, là điểm nhấn quan trọng của phong cách viết. Đối với một tác phẩm kịch, tất cả những vấn đề về ngôn ngữ đều được đặt vào ngôn ngữ nhân vật. Đó chính là điểm khác biệt rõ rệt nhất so với với ngôn ngữ tự sự và ngôn ngữ trữ tình.

Còn văn bản kịch là văn bản đối thoại, hoàn toàn không có khái niệm “người kể chuyện” như trong các tác phẩm tự sự.

Lời của các nhân vật gọi là thoại, bao gồm ba dạng: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.

Nhà hát Annam đầu tiên tại Sài Gòn.
Ảnh: http://dansaigon.com/

Sự kiện công diễn vở Chén thuốc độc của Vũ Đình Long vào 22/10/1921 tại Hà Nội được xem là sự kiện lịch sử và được ghi nhận là ngày đầu tiên công diễn một vở kịch nói của người Việt, do chính những người Việt sáng tác và biểu diễn. Nhưng có thể nói, bến đỗ đầu tiên của kịch nói phương Tây khi du nhập vào Việt Nam đó chính là Sài Gòn – Nam Bộ. Thực tế có thể thấy rằng, người Pháp khánh thành Nhà hát Lớn Hà Nội vào năm 1911, tức sau Nhà hát Lớn tại Sài Gòn cả chục năm (1900). 

“Loại hình kịch nói (thoại kịch) được giới thiệu với người Sài Gòn từ những gánh hát Tây. Khi nhà hát Đô Thành được xây dựng thì hàng năm người Pháp lại đón các đoàn kịch sang diễn. Các công chức và thân hảo của Thành phố được mời đi xem”.  – G.S Hoàng Như Mai nói về kịch nói tại Sài Gòn giai đoạn này.

Trước đó vào năm 1863 đã có các gánh hát Tây qua diễn tại Sài Gòn để giải sầu cho khách viễn chinh. Ban đầu họ hát tại nhà của Thủy Sư Đề đốc – nơi gọi là Công trường Đồng hồ (Place de l’Horloge) ở góc Tự Do và Nguyễn Du ngày nay, lúc bấy giờ nhà thờ lớn chưa có. Như vậy có thể nói, những đoàn kịch (kịch nói và nhạc kịch) của Pháp đã có mặt tại Sài Gòn sớm hơn cả Hà Nội, Hải Phòng.

Cũng cần phải nói thêm rằng từ năm 1907 tại Sài Gòn đã có ấn hành tờ Tạp chí Sân khấu (Saigon théâtre) để giới thiệu, phê bình các vở diễn tại nhà hát Đô Thành, như vậy, tờ báo chuyên về nghệ thuật sân khấu đã ra đời đầu tiên tại vùng đất Sài Gòn.

Năm 1918 Lê Quang Liêm (Đốc Phủ Bảy) cộng tác với ký giả Đặng Thúc Liêng cho công diễn vở kịch Hoàng tử Cảnh du Tây hay còn gọi là Gia Long tẩu quốc. Đây là vở được viết theo lối văn biền ngẫu, được diễn theo cách nói lối, phong cách giống kịch cổ điển Pháp, và hoàn toàn không có ca nhạc trong đó (trước đó, diễn kịch thường hay kết hợp với ca nhạc) và là vở kịch có vẻ ca ngợi Đại Pháp. 

Năm 1933 – 1934 Lê Văn Đức (Jacques Lê Văn Đức) thành lập một đoàn kịch nói có tên là Đức Hoàng Hội, nhưng đoàn kịch tồn tại được không lâu. Báo Phụ nữ Tân văn ghi nhận “Chẳng bao lâu người ta không nghe thấy tiếng Đức Hoàng Hội nữa. Kịch vừa sinh ra đó rồi mất liền đó. Thì ra người Nam mình ít ưa cái cách nói chuyện”. Tuy nhiên “nói là người Nam mình không ưa thì cũng chưa đúng lắm. Phải nói rằng: Nhu cầu xem hát của công chúng Sài Gòn đã được thỏa mãn bởi sân khấu Cải Lương, một loại hình ca kịch dân tộc hiện đại, sinh ra do nhu cầu cải cách của khán giả.”

 Thăng trầm các ban “thoại kịch”

Nếu như trước đây, diễn kịch nói ở Sài Gòn chỉ là hình thức diễn tài tử, diễn chơi, mục đích biểu diễn thường để làm từ thiện, thì khi ban kịch Dân Nam ra đời đã khai mở một phong cách làm việc chuyên nghiệp hơn, quy tụ nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như: Anh Lân (người sáng lập và điều hành), Vân Hùng, Hoàng Mai, Xuân Phát, Anh Sơn, Kim Cương, Túy Hoa, Túy Phượng, Tuyết Vân, Túy Hồng, Thu Cúc, Tường Vi…

Đến năm 1959 số lượng các ban kịch nói (thoại kịch) tham gia với đài Truyền hình đã lên đến 30 ban lớn nhỏ như: Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Vũ Đức Duy, Gió Nam, Sống, Trường Thủy, Bạch Tường, Đen Trắng……lúc này kịch nói đã có nhiều nghệ sĩ lừng danh như: Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, thậm chí những giáo sư, đạo diễn về kịch nghệ cũng lên sân khấu như: Mỹ Tín, Vũ Đức Duy. Nhiều nghệ sĩ kịch nói cũng đã được khán giả ái mộ như: Túy Hoa, Kiều Hạnh, Bích Sơn, Mỹ Chi, Tú Trinh, Anh Lân, Vân Hùng, Huỳnh Thanh Trà, Ngọc Đức, Khả Năng, Xuân Phát, Hoàng Mai… 

Giai đoạn 1954 – 1970 do thị hiếu của khán giả thay đổi nên hình thức Đại nhạc hội “ăn nên làm ra”. Vì vậy nhiều ban kịch đã tổ chức diễn kịch ngắn thay cho các vở diễn có thời lượng dài, xen trong các chương trình đại nhạc hội để diễn viên kịch nói “còn có đất sống”. Lúc này tại Sài Gòn đã có hiện tượng chạy tăng-đe (chạy show) tức trong một đêm có ban kịch diễn ở Sài Gòn xong lại chạy vào Chợ Lớn hoặc xa hơn là từ Sài Gòn đi Mỹ Tho, Biên Hòa, Long Xuyên… 

Tuy nhiên, so với những năm trước, giai đoạn năm 1961 là giai đoạn thoại kịch gặp nhiều khó khăn, từ chính sách quản lý của chính quyền, tình hình chiến sự, về soạn giả, biểu diễn và từ việc thiếu rạp hát. Năm 1962 tại “Sài Gòn lúc này với 2 triệu dân nhưng chỉ có 5 rạp hát đầy đủ tiện nghi, các rạp còn lại chưa đáp ứng được nên các đoàn hát phải đi lưu diễn các nơi khác”… điều này đã làm cho thoại kịch như xuống cấp. 

Bên cạnh đó, tuy hiến pháp của chính quyền Sài Gòn đồng ý cho mọi người có quyền tham gia và hưởng thụ từ các hoạt động văn hóa văn nghệ, nhưng lại bắt những người đứng đơn xin diễn thoại kịch phải đóng thuế. Giai đoạn này báo chí viết về nghệ thuật cũng đã phát triển, trong đó có kịch nói ở Sài Gòn. Nhiều bài của các tác giả, nhà soạn kịch, ký giả, các nhà hoạt động chuyên môn viết và phân tích về kỹ thuật biểu diễn của diễn viên khá chi tiết, đây cũng chính là những người cung cấp lý luận đầu tiên về kịch nói ở Sài Gòn.

Báo Văn Đàn, số 11, ra ngày 31/8/1961 có đăng bài của Mỹ Tín với tựa đề “Nhân nghe nhà soạn kịch Vi Huyền Đắc diễn thuyết” trong đó có đoạn viết “sự thành công của kịch sĩ trên sân khấu do kỹ thuật diễn xuất quyết định, nếu lý trí không nắm vai trò chủ động thì kịch sĩ tránh sao khỏi những trường hợp diễn ra ngoài công thức, ngoài quy tắc, ngoài lề luật”. 

Trong giai đoạn này một hội đồng giám khảo cuộc thi về thoại kịch cũng đã được thành lập vào ngày 05/08/1960 bao gồm các thành phần chủ tịch hội đồng là Vi Huyền Đắc và các ủy viên Vũ Khắc Khoan, Vũ Đức Duy… Giai đoạn 1970 -1975, do trào lưu các phim Mỹ, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan tràn vào Miền Nam nên phần lớn các rạp đều được biến thành rạp chiếu phim để thu lợi nhuận, dẫn đến cải lương, kịch, đại nhạc hội đều gặp khó khăn trong việc tìm điểm diễn. Những năm cuối của giai đoạn này, do tình hình chiến sự và sự sụp đổ từ từ của chính quyền Sài Gòn nên sự phát triển của kịch nói cũng không nhận được sự quan tâm của công chúng lẫn chính quyền. 

Dấu ấn của kịch Kim Cương

Nếu như kịch chuyên nghiệp miền Bắc được ra đời sớm hơn thì kịch Nam Bộ được xem là sinh sau đẻ muộn với nhiều con đường. Nhưng con đường chính phải nhắc đến là: sự chuyển đổi của các nghệ sĩ vốn biểu diễn Cải Lương nhưng sau đó đã chuyển sang lĩnh vực kịch nói. Tiêu biểu cho hướng đi này là nghệ sĩ Kim Cương và các ban kịch, đoàn kịch của các nghệ sĩ Miền Nam. Họ là những người đã làm nghề tại Sài Gòn trước năm 1975. Chính họ đã sáng tạo nên những vở diễn sao cho phù hợp với nhu cầu của đất nước và công chúng trong từng giai đoạn. 

Nghệ sĩ Kim Cương, từ một nghệ sĩ Cải Lương nhà nòi, bằng tất cả tâm huyết, lòng yêu nghề, cộng với sự am hiểu về nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng, nhất là sau chuyến đi Pháp trở về, cô đã cho ra đời “thể loại” kịch mà sau này gắn liền với chính cái tên của mình  – kịch Kim Cương. 

Là người có truyền thống gia đình theo Cải Lương, lại chịu ảnh hưởng từ Tây học, nghệ sĩ Kim Cương lên sân khấu từ lúc 6 tuổi, phụ trách đoàn Cải Lương Năm Phỉ – Kim Cương từ năm 1954 – 1957. Đến năm 1957, nghệ sĩ Kim Cương giải tán đoàn cải lương để chuyển sang diễn kịch nói và đóng phim. Cuối năm 1959, nghệ sỹ chính thức thành lập ban kịch Kim Cương.

“Ban kịch xứng đáng đánh dấu nền kịch nói Thành Phố Sài Gòn là ban kịch Kim Cương”. – GS. Hoàng Như Mai

Chính nền tảng văn hóa Nam Bộ đã góp phần tạo nên thương hiệu kịch Kim Cương không thể lẫn vào đâu được. Với những vở diễn về thân phận người phụ nữ, về “mẹ” như: Tôi là mẹ, Trà hoa nữ, Nước mắt con tôi, Sắc hoa màu nhớ, Vùng bóng tối, Cuối đường hạnh phúc, Người nuôi hy vọng, Khát sống, Huyền thoại mẹ…Đặc biệt hai vở Lá sầu riêng (Duyên kiếp lỡ làng), Dưới hai màu áo (Ai là vợ) đã mê hoặc khán giả xem kịch kể cả trước năm 1975 và cả những năm sau này. 

“Tôi đã từng xem Trà hoa nữ ở Pháp, do người Pháp diễn, nhưng khi xem đoạn Kim Cương diễn cô vũ nữ đối thoại với cha của người yêu, mới thấy những phát hiện tâm lý của Kim Cương quả là tài tình. … Kim Cương đã Việt Nam hóa kịch nước ngoài, làm giàu cho kịch nghệ Việt Nam”.

GS.TS Trần Văn Khê đã nhận xét về nghệ thuật kịch của Kim Cương

Kịch nói ngày hội tụ

Ngày 22/5/1975, tàu Đồng Nai cập bến cảng Sài Gòn mang theo các nghệ sỹ của Đoàn Kịch nói Nam Bộ từ miền Bắc về và sân khấu kịch nói đã có thêm một đơn vị chuyên nghiệp nữa cùng tồn tại, thúc đẩy kịch nói Thành phố phát triển. Từ lúc có mặt ở Sài Gòn, Đoàn Kịch nói Nam Bộ biểu diễn những vở đã diễn ở miền Bắc như: Chuông đồng hồ điện Kremlin, Hòn đảo Thần Vệ nữ, Người ven đô... sau đó Đoàn được kết hợp với các nghệ sĩ từ trong chiến khu ra. 

Ngày 03/9/1976, Đoàn được đổi tên thành Đoàn Kịch Cửu Long Giang, đến ngày 31/5/1977, Bộ Văn Hóa đã quyết định chuyển giao Đoàn Kịch Cửu Long Giang về cho Ủy ban nhân dân TP.HCM quản lý. Năm 1988, một lần nữa Đoàn được chuyển thành Đoàn Kịch nói Thành Phố, đến năm 1997, đổi tên lần nữa thành Nhà hát Kịch Thành phố. 

Sau ngày đất nước thống nhất, các nhóm kịch từ trong chiến khu cũng đã trở về, góp phần không nhỏ làm cho nền kịch nghệ thành phố lúc bấy giờ ngày một phong phú. Ngày 21/8/1997 thủ tướng Phan Văn Khải đã ký và cho ban hành nghị quyết 90-CP của chính phủ về “phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá (đã được chính phủ thông qua tại phiên họp thường kỳ tháng 3 năm 1997)”. Đây chính là cơ sở pháp lý rất quan trọng để thúc đẩy phát triển các hoạt động y tế, giáo dục, đặc biệt là văn hóa nghệ thuật. Đặc biệt với một vùng đất năng động như TP.HCM thì tác động của nghị quyết này đối với hoạt động nghệ thuật, đặc biệt là lĩnh vực kịch nói hết sức to lớn. 

Từ cơ sở này, hàng loạt các sân khấu Xã hội hóa ra đời. Bên cạnh đó, vai trò của sân khấu công lập cũng được đánh giá lại đúng mức. Những điều đó đã tạo nên bức tranh đa sắc màu của kịch nói tại thành phố. Nhiều đoàn nghệ thuật hoạt động trên lĩnh vực kịch nói chuyên nghiệp, các nhóm kịch, các tụ điểm diễn kịch cũng ra đời trong giai đoạn này có thể kể như: Đoàn Nghệ thuật Sân Khấu Trẻ (Đoàn Kịch trẻ), Sân khấu Hài 135 Hai Bà Trưng, Sân khấu Kịch Sài Gòn, Sân khấu Kịch Idecaf,… đặc biệt là sự ra đời của CLB Sân Khấu Thể Nghiệm 5B sau này là Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ với hướng đi riêng về sân khấu thể nghiệm. 

Ngoài những thành công mang tính đột phá của loại hình sân khấu nhỏ mà có thể nói bắt đầu là dấu ấn với vở diễn Dạ cổ hoài lang, giai đoạn này cũng là giai đoạn thành công của những vở diễn lớn mang tính chất hoành tráng. Nhà hát Hòa Bình đã đứng ra hạch toán với các nghệ sỹ theo kiểu “nhà nước và nhân dân cùng làm” để thực hiện những vở diễn lớn như Tình nghệ sĩ (1992), Anh Sui Chị Sui (1995)…  Giai đoạn cực thịnh này của sân khấu TP.HCM đã tạo nên những tên tuổi nghệ sỹ mới được công chúng ái mộ như các đạo diễn: Trần Ngọc Giàu, Công Ninh, Minh Hải, Trần Văn Hưng, Hoa Hạ, Trọng Nam, Nguyễn Thị Minh Ngọc… Bên cạnh các đạo diễn gạo cội như: Đoàn Bá, Trần Minh Ngọc, Huỳnh Nga, Ca Lê Hồng, Bạch Lan, Lê Văn Tỉnh, Thanh Hạp, Thu An, Minh Quân…một lực lượng diễn viên mới cũng thành danh trên lĩnh vực kịch nói và trở thành những ngôi sao mới trên bầu trời kịch nghệ như: Thành Lộc, Minh Hoàng, Thanh Hoàng, Việt Anh, Hữu Châu, Hồng Vân, Quốc Thảo, Thanh Thủy, Phương Linh …

So với một số loại hình nghệ thuật khác thì kịch nói xuất hiện ở nước ta nói chung và Nam Bộ (trong đó có Sài Gòn – TP.HCM) nói riêng được xem là khá muộn. Tuy nhiên khi kịch nói xuất hiện ở Sài Gòn, bản thân nó đã bắt đầu mang đậm hơi thở của địa phương, mang màu sắc riêng, phong thái riêng. Và sau một thời gian, kịch nói đã trở thành một loại hình nghệ thuật đặc sắc, phản ánh kịp thời những vấn đề của cuộc sống xã hội.

Ngày nay kịch nói đã trở thành một món ăn tinh thần quen thuộc đối với một bộ phận người dân Thành phố. Trên bản đồ nghệ thuật biểu diễn cả nước giờ đây không thể thiếu một phần hoạt động quan trọng của nghệ thuật kịch nói ở TP.HCM. Để có được bộ mặt của kịch nói như hôm nay là cả một quá trình vận động, phát triển và phấn đấu của biết bao thế hệ nghệ sĩ. 

Tuy nhiên, thực tế đáng buồn là sự phát triển vượt bậc của công nghệ 4.0 đã khiến cho thế hệ trẻ dần xa rời và lãng quên với những giá trị truyền thống, trong đó có kịch nói. Công bằng mà nói, nếu nội tại không đủ hấp dẫn, liệu kịch nói có đủ sức tồn tại cho tới thời điểm hiện nay, trong khi quy luật đào thải của lĩnh vực nghệ thuật thực sự quá đỗi khắc nghiệt?

Hiện nay, kịch nói tại TP.HCM nói riêng và Nam bộ nói chung đã có những điều chỉnh để mang đến những dấu ấn mới, đặc biệt lồng ghép hơi thở đương thời vào trong từng vở diễn để có thể thích nghi với thị hiếu của khán giả trẻ. Vậy tại sao, những người trẻ ơi, chúng ta vẫn chưa cởi mở hơn trong việc dung nạp những giá trị truyền thống của dân tộc, một hệ giá trị văn hóa xứng đáng được gìn giữ và lưu truyền rộng rãi hơn?

Nếu vẫn còn dành sự quan tâm cho chủ đề này, hãy cùng mình phân tích sâu hơn một lát cắt nhỏ góp phần làm nên bộ mặt kịch nghệ của TP.HCM trong giai đoạn hiện nay – sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh, trong phần tiếp theo nhé!

Thực hiện: May

Thiết kế: Uyên Nguyễn

Nguồn:

  1. Thạc sĩ Huỳnh Công Duẩn (thạc sĩ đạo diễn Hoàng Duẩn), Khoa quản lý Văn hóa Nghệ Thuật, Trường Đại học Văn hóa TPHCM.
  2. Trần Thị Thư, Luận án Tiến sĩ Văn học – Kịch Việt Nam (1945 -1985) về đề tài lịch sử – tư duy nghệ thuật và đặc trưng, Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội.

/Nghe Hoàng Thái Thanh trải lòng về sân khấu kịch nói/ là loạt bài kể về tâm tình của những người làm kịch tại sân khấu Hoàng Thái Thanh. Những người nghệ sĩ đã hết sức chăm chút và tỉ mẫn trong từng tác phẩm để gửi gắm đến các khán giả những giá trị đời thường nhưng cũng rất đỗi nhân văn, đồng thời góp phần làm giàu đẹp hơn kho tàng văn hóa kịch nghệ của nước nhà.

Cùng tác giả

#Tag

kịch nói kịch nói miền Nam may nghệ thuật sân khấu Sân khấu kịch Series Nghe Hoàng Thái Thanh trải lòng về kịch nói

iDesign Must-try

New York School và thiết kế đồ hoạ Mĩ giữa thế kỉ 20 (Phần 1)
New York School và thiết kế đồ hoạ Mĩ giữa thế kỉ 20 (Phần 1)
Làn sóng đầu tiên của thiết kế Hiện đại ở Mĩ là do những người nhập cư châu Âu tài năng tìm kiếm trốn thoát chủ nghĩa toàn trị chính…
/Ta biết gì về loạt tranh tự họa của các nghệ sĩ?/ - Rembrandt 
/Ta biết gì về loạt tranh tự họa của các nghệ sĩ?/ - Rembrandt 
Series /Ta biết gì về loạt tranh tự họa của các nghệ sĩ?/ là loạt bài giới thiệu và phân tích về chùm tranh tự họa của các họa sĩ…
Thiên nhiên sống động qua nét bút đơn sắc của Tomoaki Murayama
Thiên nhiên sống động qua nét bút đơn sắc của Tomoaki Murayama
Với niềm say mê đặc biệt dành cho nghệ thuật và tình yêu thiên nhiên ngay từ thuở bé, Tomoaki Murayama, một nghệ sĩ Nhật Bản đã tạo nên vô…
Tham gia ngay Giải thưởng và Cuộc thi Thiết kế A’ - A’ Design Award & Competition
Tham gia ngay Giải thưởng và Cuộc thi Thiết kế A’ - A’ Design Award & Competition
A’ Design Award & Competition – Giải thưởng và Cuộc thi Thiết kế A’  là một trong những cuộc thi hội tụ các tài năng thiết kế thuộc cộng đồng…
Khi những tác phẩm văn học kinh điển đi vào các trang lịch 2024 của Nhã Nam 
Khi những tác phẩm văn học kinh điển đi vào các trang lịch 2024 của Nhã Nam 
Gửi lời chào năm 2024 đến các độc giả, Nhà xuất bản Nhã Nam đã giới thiệu đến công chúng bộ lịch với chủ đề “Từ trong trang sách”, lấy…
Bóc Lịch | Tổng hợp các thiết kế lịch 2024 nổi bật của artist Việt trên Behance
Bóc Lịch | Tổng hợp các thiết kế lịch 2024 nổi bật của artist Việt trên Behance
Chỉ còn vài ngày nữa là Tết Giáp Thìn 2024. Gác lại những muộn phiền của năm 2023, hãy cùng iDesign chiêm ngưỡng bộ lịch Tết 2024 nổi bật đúng…