Góc nhìn toàn cảnh về trường phái Biểu hiện (Expressionism)

 Trường phái Biểu hiện (Expressionism) là một thuật ngữ để chỉ phong cách hội họa, âm nhạc và văn chương mang tính tâm linh và đầy xúc cảm vào những năm đầu của thế kỉ XX.

id expressionism 01
ERNST LUDWIG KIRCHNER (1880-1938)
‘Davos under Snow’, 1923 (sơn dầu trên canvas)

Cái nôi của Expressionism

id expressionism 02
MATTHIAS GRÜNEWALD (1475-1528)
‘Crucifixion Panel from the Isenheim Altarpiece ‘, 1515 (sơn dầu trên gỗ)

Trường phái Biểu hiện (Expressionism) gắn liền ở Bắc Âu nói chung và nước Đức nói riêng. Tinh thần của những người theo trường phái này đã luôn tồn tại trong tâm tưởng người Đức. Những đặc điểm ban đầu của Expressionism có thể được nhận thấy trong sự khắc họa nỗi khổ đau về vật chất lẫn tinh thần như tranh ‘Crucifixion’ của Grünewald (ảnh trên); trong viễn cảnh bị giày vò ở tranh khắc của Martin Schongauer, ‘Temptation of Saint Anthony’ (ảnh dưới).

id expressionism 03
MARTIN SHONGAUER (1448-1491)
‘The Temptation of Saint Anthony’ khoảng năm 1480
(tranh chạm khắc trên đồng)

Tới cuối thế kỉ XIX, tinh thần của người theo trường phái này tái xuất hiện trong các tranh của hai nhân tố tách biệt và vụng về – một là họa sĩ người Hà Lan Vincent van Gogh, người còn lại là họa sĩ Na Uy Edvard Munch.

Trong khi những người theo trường phái Ấn Tượng ngưỡng mộ vẻ đẹp và sự hài hòa sắc màu của phong cảnh tự nhiên, Van Gogh và Munch lại có quan điểm khác biệt. Họ chọn cái nhìn đi sâu vào nội tâm để khám phá hình thức “tự thể hiện” (self-expression); thứ đem đến tiếng nói cá nhân mạnh mẽ trong thế giới mà họ luôn cho rằng nó đầy bấp bênh và chống đối. Bởi vì sự tìm kiếm mang tính chủ quan cho sự thật chứa đầy tình cảm cá nhân như thế, nó thúc đẩy họ và mở đường cho các hình thức nghệ thuật Biểu hiện của thế kỉ XX đi sâu vào việc khám phá cảnh quan bên trong tâm hồn.

id expressionism 04
VINCENT VAN GOGH (1853-1890)
‘Sunflowers’, 1888 (sơn dầu trên canvas)

Các tranh như ‘Sunflowers’ (1888) của Van Gogh hướng đôi mắt ta vào cường độ của những sắc màu biểu cảm. Người họa sĩ sử dụng màu để diễn tả cảm xúc đối với vật thể thay vì đơn giản chỉ mô tả nó. Trong lá thư gửi em trai Theo van Gogh, Vincent giải thích:

“Thay vì tìm cách sao chép những gì mắt nhìn thấy, anh muốn dùng màu một cách linh hoạt hơn để diễn tả sinh động về bản thân mình.”

Tầm nhìn ấy giúp ông giải phóng màu sắc như một công cụ đầy cảm xúc của nghệ thuật thế kỉ XX; sức sống hiện lên trong từng nét cọ trở thành ảnh hưởng chính trong sự phát triển của kĩ thuật vẽ tranh Dã Thú (Fauvism) và Biểu hiện (Expressionism).

id expressionism 05
EDVARD MUNCH (1863-1944)
‘The Scream’, 1893 (sơn dầu, màu keo, phấn tiên trên bảng)

Bức tranh ‘The Scream’ (1893) của Munch có tầm ảnh hưởng tương đương. Nó cho ta một bản phác họa về tâm lý của nghệ thuật Biểu hiện: Các hình dạng bị bóp méo, màu sắc cường điệu hóa khuếch đại cảm giác lo âu và cô lập. ‘The Scream’ là tiếng khóc của Munch giữa nơi hoang tàn, tuyên bố sự tiên liệu về thông điệp của những người theo trường phái Biểu hiện trước mười lăm năm lúc thuật ngữ này xuất hiện.

“Lúc đấy tôi đang tản bộ với hai người bạn. Mặt trời lặn. Một nỗi buồn neo lại trong tôi. Bỗng dưng bầu trời nhuốm một màu đỏ máu. Tôi dừng lại, dựa vào lan can, chết lặng trong mỏi mệt. Rồi tôi nhìn thấy những đám mây rực cháy treo lửng lờ như máu và một thanh gươm bao trùm trên vịnh xanh-đen cũng như cả thành phố. Mấy người bạn vẫn cứ thế rảo bước. Còn tôi đứng đấy, run rẩy trong sợ hãi. Và tôi đã cảm giác như có một tiếng thét chói tai không ngưng nghỉ xé toạc Tự nhiên.”


Phong trào Die Brücke (‘Cây Cầu’/The Bridge)

id expressionism 06
KARL SCHMIDT-ROTTLUFF (1884-1976)
‘Madchen aus Kowno’, 1918 (tranh khắc gỗ)

Phong trào Die Brücke hay The Bridge thành lập ở Dresden (Đức) năm 1905 bởi Ernst Ludwig Kirchner (1880-1938) , Karl Schmidt-Rottluff (1884-1976), Erich Heckel (1883-1970) và Fritz Bleyl (1880-1966). Ý nghĩa của tên gọi này gợi ý rằng họ muốn xây dựng Die Brücke (cây cầu) từ những tượng đài nghệ thuật lớn của Đức như Dürer và Grunewald đến một tương lai mới và tốt đẹp hơn, đối đầu với các nghệ sĩ Giai cấp Tư sản đương thời. Họ còn viết một bản tuyên ngôn mà Kirchner khắc trên gỗ, “Đặt niềm tin của mình vào một thế hệ mới đầy sáng tạo và mến mộ hội họa, chúng tôi kêu gọi mọi người trẻ hãy tụ hội. Và bởi vẫn còn tươi trẻ cũng như mang trong mình cả tương lai, chúng ta muốn giành lấy quyền sống và dịch chuyển khỏi sự sung túc thoải mái đã được tạo lập của những thế hệ đi trước. Bất kì ai trực tiếp và chân thành tái kiến tạo lực lượng mà có thể thúc đẩy chính bản thân mình đi tiếp, họ đều là một phần của chúng tôi.”

Những thành viên của Phong trào Die Brücke theo cách sống tự do phóng túng và sống như một phần của cộng đồng nghệ thuật tại một quận thuộc khu vực lao động ở Dresden; họ chủ ý tách mình khỏi “sự sung túc thoải mái đã được tạo lập”. Họ cho rằng người nghệ sĩ cần phải có hoàn toàn tự do bày tỏ, không bị xiềng xích bởi quy tắc xã hội hay lề thói nghệ thuật.

Cũng như những phong trào nghệ thuật khác, họ nhìn lại quá khứ để tiến lên phía trước. Nghệ thuật Gothic mang tinh hoa của Đức cũng như không khí u tối tương đối thích hợp để trở thành cảm hứng tự nhiên cho Phong trào. Các hình dạng lởm chởm của Gothic dễ dàng hợp nhất cùng những từ vựng thị giác ban đầu của nghệ thuật Châu Phi và Châu Đại Dương mà họ đã khám phá được ở bảo tàng Dân tộc học ngay tại Dresden.

Dạng nghệ thuật chính xuất hiện trong sự hợp nhất phong cách này là khắc gỗ (woodcut). Khắc gỗ đã là phương thức in truyền thống của Đức cho lối minh họa dẫn chuyện. Khi hợp cùng từ vựng của Nghệ thuật Nguyên thủy (Primitive Art), phương pháp này trở thành công cụ mạnh mẽ để truyền tải biểu hiện cá thể. Một sự thay thế hiện đại cho phương pháp truyền thống này là linocut (in trên ván lót sàn), xuất hiện từ Die Brücke.

id expressionism 07
EMILE NOLDE (1867-1956)
‘Crucifixion’, 1912 (sơn dầu trên canvas)

Bản tuyên ngôn của Phong trào này là lời mời gọi đến những họa sĩ cùng tư tưởng đến tham gia. Emil Nolde là một ví dụ. Tranh của vị họa sĩ này theo con đường tương tự như Phong trào Die Brücke, sau đó tham gia hội vào năm 1906. Mặc dù vậy, Nolde chỉ là thành viên trong thời gian ngắn vì lối sống cộng đồng này không như kỳ vọng của ông. Emil Nolde lớn tuổi hơn và bảo thủ hơn những người trẻ hoạt động cho Die Brücke.

Đối tượng yêu thích của Nolde là những vùng biển u ám gợi lên hình ảnh tuổi trẻ của ông cũng như các chủ đề Kinh thánh phản ánh sự giáo dục nghiêm khắc trong suốt quãng thời gian lớn lên của vị họa sĩ. Ông mê đắm sự diễn tả cường điệu của bức Isenheim Altarpiece và tạo ra một phiên bản của chính mình: tranh tam liên họa (polyptych) chia thành chín phần tranh nhỏ diễn tả cuộc đời của Chúa. Bản tranh ở giữa phía trên là hình ảnh khi Chúa bị đóng đinh trên Thánh giá dựa vào tuyệt tác của Grünewald, là bức kinh điển thuộc Trường phái Biểu hiện. Một sự pha trộn phong cách của bản vẽ Nguyên thủy (primitive) với sự cường điệu về màu của trường phái Dã thú (Fauves), sắp xếp lại với nhau theo bố cục Gothic của Đức.


Phong trào Der Blaue Reiter (Kỵ mã xanh/The blue rider)

id expressionism 08
AUGUSTE MACKE (1887-1914)
‘Girls Under Trees’, 1914 (sơn dầu trên canvas)

Der Blaue Reiter (The Blue Rider) không hẳn là một nhóm thuộc Biểu hiện mà như là một nhóm tập hợp các tài năng đa dạng cống hiến cho sự xuất bản ấn phẩm thường niên ‘Der Blaue Reiter’ và hai triển lãm cùng tên.

Ấn phẩm Der Blaue Reiter xuất bản vào tháng 5/1912 bởi Wassily Kandinsky và Franz Marc. Tên sách được lấy từ một bức tranh người kỵ mã xanh được sử dụng để làm bìa. Kandinsky có nói, “Cả hai chúng tôi đều yêu màu xanh: Marc yêu những chú ngựa, bản thân tôi lại yêu những người kỵ sĩ. Vậy nên cái tên The Blue Rider/ Der Blaue Reiter hình thành từ đó.”

Trong khi Die Brücke góp nhặt Nghệ thuật Nguyên thủy như một phong cách thô mộc có thể lật đổ truyền thống đã được gầy dựng, những họa sĩ của Der Blaue Reiter lại bị thu hút bởi khía cạnh huyền bí hơn của Nghệ thuật ấy, đặc biệt là mối quan hệ giữa tinh thần và siêu nhiên. Nghệ thuật Nguyên thủy có sự thuần khiết nhất định đủ để tách khỏi sự chủ nghĩa duy vật và sự suy đồi của thời đại – là “cây cầu bước vào linh hồn” như Marc từng nhắc đến.

Các triển lãm của Der Blaue Reiter diễn ra tại Munich (Đức) và trước khi xuất bản ấn phẩm của họ. Triển lãm đầu tiên với tranh của Kandinsky, Marc, Auguste Macke cùng một số họa sĩ khác diễn ra vào tháng 12/1911; lần thứ hai, một triển lãm đồ họa bao gồm các nghệ sĩ thuộc nhiều lĩnh vực đa dạng hơn, mở cửa vào mùa xuân năm 1912.

Mục đích của các đợt triển lãm Der Blaue Reiter đó là nhằm làm nổi bật những sự tương đồng ở các phương thức khác nhau để tạo ra nghệ thuật. Ví dụ, tìm kiếm nền tảng chung giữa Nghệ thuật Nguyên thủy và Nghệ thuật Đương đại. Họ vạch ra mục tiêu này trong bảng danh mục của cuộc triển lãm đầu tiên, “Chúng tôi không tìm cách phổ biến bất kì hình thức chính xác hay cụ thể nào cả; mục đích của chúng tôi là cho thấy trong sự đa dạng của những hình thức được thể hiện, cái cách mà khát vọng thầm kín của người họa sĩ được nhìn thấu ở nhiều phương pháp khác nhau.”

Der Blaue Reiter đặt dấu chấm hết từ sau cái chết của Franz Marc và Auguste Macke giữa Thế Chiến I.


Trường phái Trừu tượng mang tính Biểu hiện (Expressive Abstraction)

id expressionism 09
WASSILY KANDINSKY (1866-1944)
‘Composition IV’, 1911 (sơn dầu trên canvas)

Tranh của Kandinsky dần xa rơi khỏi sự thể hiện tả thực các hình thể để bước vào cõi tinh thần của trừu tượng. Từ khi còn bé ông đã học nhạc, chơi piano lẫn cello. Ông còn có sự phát triển rất cao về phản ứng synaesthetic (trải nghiệm màu sắc phản hồi với những âm thanh nghe được) và ông nhận ra màu có thể kích thích cảm xúc tương tự như âm nhạc chạm tâm hồn ta. Mối liên kết giữa thị giác và thính giác truyền cảm hứng cho những thí nghệm với màu sắc như một yếu tố trừu tượng cho chủ đề nghệ thuật của ông. Ý tưởng này càng được củng cố sau một trải nghiệm tình cờ vào năm 1908, “Tôi đang đi về nhà và chìm đắm trong suy nghĩ về bản phác họa của mình thì thình lình, trong lúc mở cửa studio tôi chạm mắt tới một hình ảnh với vẻ đẹp rực rỡ. Bối rối, tôi dừng lại và nhìn chằm chằm vào nó. Đó là một bức tranh không có bất kì chủ thể nào, được diễn họa với sự thiết sót của các vật thể định danh và hoàn toàn sáng tạo trên những mảng màu tươi sáng. Cuối cùng tôi bước tới gần hơn và thật sự nhìn thấy được điều đang diễn ra – bức tranh của chính tôi, đặt trên giá vẽ… Một thứ bỗng trở nên rõ ràng: tính khách quan và sự mô tả các vật thể, chúng không cần phải có bất kì chỗ nào trong tranh của tôi, chúng gây hại cho các bức tranh thì đúng hơn.”

Trong một ấn bản năm 1911, ‘Về vấn đề liên quan tới phi vật chất trong nghệ thuật’ (‘Concerning the Spiritual in Art’), ông chỉ ra rằng,“Màu sắc không thể đứng một mình; nó không thể phân chia ranh giới một số thứ…. Mức độ không-bao-giờ-kết-thúc của màu đỏ chỉ có thể nhìn thấy trong tâm trí; khi từ ‘màu đỏ’ được nghe thấy, màu sắc được gợi lên mà không cần giới hạn cụ thể nào.”

Những bức tranh của Kandinsky trong thời kì này là những nỗ lực để giải phóng chất lượng tâm linh của màu sắc bằng cách để nó vượt ra khỏi những định nghĩa cho các vật thể hữu hình. Trong việc tiến  vào trừu tượng bằng cách phá vỡ ranh giới của những hình khối thực, ông cố gắng đi sâu vào sức mạnh biểu hiện của màu sắc như cách nó tồn tại trong tâm trí. Mặc dù vậy, trong tác phẩm có yếu tố âm nhạc và trừu tượng mang tên ‘Composition IV’ ở trên, vẫn có sự tham khảo mập mờ từ các hình ảnh và vật thể trong cảnh quan, màu sắc hiện ra như một sức mạnh chớp nhoáng tạo ra năng lượng cho toàn bộ bức tranh.

Kandinsky là nghệ sĩ đầu tiên đưa tranh vẽ tiến vào trừu tượng hoàn toàn. Ông phát biểu, “Trong số những loại hình nghệ thuật, trừu tượng là khó nhằn nhất. Nó đòi hỏi bạn phải vẽ tốt, bạn phải có sự nhạy cảm hơn thảy trong bố cục cũng như màu sắc, và bạn là một nhà thơ đích thực. Điều cuối cùng là cần thiết nhất.”

id expressionism 10
PAUL KLEE (1879-1940)
‘Ad Parnassum’, 1932 (sơn dầu trên bảng gỗ)

Họa sĩ người Thụy Sĩ – Paul Klee – tham gia vào triển lãm Der Blaue Reiter lần hai. Với sự ảnh hưởng của Kandinsky, Marc và Macke, Klee trở nên hứng thú với cách sử dụng màu sắc trừu tượng. Klee, cũng như Kandinsky, là một nhạc công tài năng và động lực thúc đẩy sự nghiệp của ông chính là mối quan hệ giữa nghệ thuật và âm nhạc. Bức tranh phía trên minh họa mối liên kết giữa các loại hình nghệ thuật.

Tựa đề ‘Ad Parnassum’ (hướng tới Parnassus) đề cập đến núi Parnassus (ngôi nhà của Muses – chín nữ thần của các lĩnh vực nghệ thuật trong thần thoại Hy Lạp) và ‘Gradus Ad Parnassum’ (Đường tới Parnassus – tên của một quyển sách giáo khoa kinh điển vào thế kỉ XVIII về đối âm trong âm nhạc). Hình tam giác rõ nét ở trên cùng của tranh thể hiện đỉnh Parnassus, vòng tròn màu cam tượng trưng cho mặt trời và hình vòng cung ở phía dưới chỉ cánh cửa đến ngôi đền. Yếu tố quan trọng nhất của tác phẩm này là cách Klee sử dụng màu sắc để diễn tả ý tưởng về âm nhạc. Các bản vá nền của hậu cảnh với nhiều màu sắc khác nhau như các hợp âm của bố cục âm nhạc; trong khi đó, những bề mặt chấm li ti tựa như khảm thì sáng màu hơn, được dùng như đối trọng để hoàn thiện nên giai điệu.


Vượt khỏi trường phái Biểu hiện

id expressionism 11
MAX BECKMANN (1884-1950)
‘The Departure’, 1932-33 (tranh triptych – sơn dầu trên canvas)

Sau sự tan rã của vài nhóm thuộc Trường phái Biểu hiện ở Đức, phong trào này vẫn tiếp tục đi lên bằng nhiều cách khác nhau thông qua tác phẩm của các họa sĩ đơn lẻ như Paul Klee và Max Beckmann. Tinh thần Biểu hiện tái xuất hiện trong nghệ thuật thế giới suốt thế kỉ XX: Francis Bacon ở Anh, những nghệ sĩ thuộc Trừu Tượng – Biểu hiện (Abstract Expressionists) ở Mỹ và cuối cùng quay về Đức dưới hình dạng của Ansel Kiefer vào quãng cuối 1/4 thế kỉ XX.

Max Beckman tiếp tục tinh thần phản kháng của Phong trào Cây cầu (Die Brücke) cũng như mối quan hệ với nghệ thuật ở quá khứ trong các ẩn dụ nhiễu loạn về sự ngược đãi và cô lập. Những hình ảnh mạnh mẽ này được tạo ra bởi các chấn thương tâm lý của ông về chiến hào trong y khoa quân đội vào Thế Chiến I. Ông thường lấy cái hình ảnh tôn giáo của tranh ba tấm (triptych) cho bố cục tranh mình, gợi nhớ đến nghệ thuật thời Phục Hưng như bức Isenheim Altarpiece.

id expressionism 12
FRANCIS BACON (1909-1992)
‘Study after Velazquez’s Portrait of Pope Innocent X’, 1953
(tranh sơn dầu trên canvas)

Họa sĩ người Anh – Francis Bacon – thường dùng format của tranh triptych cho những hình ảnh hỗn loạn của ông để nói về nỗi lo âu sau thế chiến và sự ruồng bỏ. Dù cá nhân ông phủ nhận ảnh hưởng của Trường phái Biểu hiện trong tranh mình, phiên bản thú vị của ‘Pope Innocent X’ (lần nữa gợi nhớ tới nghệ thuật quá khứ bởi nó dựa trên tranh của Veláquez năm 1650), tái tạo lại nguyên mẫu gốc của tranh thuộc trường phái Biểu hiện: ‘The Scream’ của Edvard Munch.


Các lưu ý về Expressionism

id expressionism 13
ERNST LUDWIG KIRCHNER (1880-1938)
‘Nollendorfplatz’, 1912 (tranh sơn dầu trên canvas)
  •  ‘Sự biểu lộ bản thân’ trong tranh của Vincent van Gogh và Edvard Munch truyền cảm hứng cho các họa sĩ Biểu hiện vào thế kỉ XX.
  • Trường phái Biểu hiện ở Đức còn gây nguồn sáng tạo cho Trường phái Dã thú (Fauvism), Gothic Đức và Nghệ thuật Nguyên thủy (Primitive Art).
  • Trường phái Biểu hiện ở Đức còn được chia làm hai phía: Phong trào Cây cầu (Die Brücke) và phong trào Kỵ mã xanh (Der Blaue Reiter).
  • Die Brücke (Cây cầu) là một cộng đồng nghệ thuật của những họa sĩ trẻ thuộc Biểu hiện tại Dresden (Đức). Mục tiêu của họ là lật đổ những truyền thống bảo thủ của nghệ thuật Đức. ‘Cây cầu’ của họ chính là con đường đến một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn của nghệ thuật tại Đức.
  • Der Blaue Reiter là một ấn phẩm bao gồm các luận văn về hình dạng của nghệ thuật Biểu hiện. Mục đích của các triển lãm mang tên Der Blaue Reiter là tìm kiếm nền tảng sáng tạo chung giữa những loại hình nghệ thuật đa dạng.
  • Sau sự tan rã của những nhóm thuộc Biểu hiện, phong trào này lan rộng và tiến lên bằng tác phẩm của những họa sĩ riêng lẻ trên toàn thế giới.


Dịch: Lệ Lin
Nguồn: ArtyFactory

Cùng tác giả

#Tag

expressionism Heirstory Kiến thức lịch sử nghệ thuật lịch sử thiết kế phong trào nghệ thuật

iDesign Must-try

Paul Cézanne — Quá trình của Sự thấy - (Phần 7)
Paul Cézanne — Quá trình của Sự thấy - (Phần 7)
Bức tranh rõ ràng là chưa hoàn chỉnh. Làm thế nào nó có thể là nghệ thuật? Nhưng Cezanne không hề nao núng trước những lời chỉ trích nhắm vào…
Hiếu Y: ‘Mình thấy hiếu kỳ với cách mọi người cảm nhận cái đẹp’
Hiếu Y: ‘Mình thấy hiếu kỳ với cách mọi người cảm nhận cái đẹp’
Sự rung cảm trước cái đẹp, cách mà con người thưởng thức hay những câu chuyện di sản – đời sống – con người làm cho Hiếu Y có những…
Nghệ thuật Phi thẩm mỹ
Nghệ thuật Phi thẩm mỹ
Nghệ thuật có thể xấu xí không? Chúng ta đang sống trong một thế giới xoanh quanh cái đẹp. Nghệ thuật là một hoạt động mang tầm quốc tế đồng…
Định nghĩa của Nghệ thuật
Định nghĩa của Nghệ thuật
Có nhiều sản phẩm nghệ thuật trên khắp thế giới. Và cũng có nhiều thứ trên đời này không phải những tác phẩm nghệ thuật. Vậy làm sao để ta…
Nghệ thuật hiện đại và những trường phái trong giai đoạn nghệ thuật này
Nghệ thuật hiện đại và những trường phái trong giai đoạn nghệ thuật này
Nghệ thuật hiện đại nổi tiếng với nhiều tính thẩm mỹ tiên phong và được tôn vinh là phong trào nghệ thuật có tư duy tiến bộ. Phát triển trong khoảng…
Kanban - Nghệ thuật tinh tế từ những bảng hiệu quảng cáo của người Nhật
Kanban - Nghệ thuật tinh tế từ những bảng hiệu quảng cáo của người Nhật
Có gì ở nghệ thuật truyền thống Kanban ở Nhật Bản? Vì sao nét đẹp này từng suýt bị quên lãng?