Bí mật đằng sau sự đắt đỏ của sơn dầu - loại vật liệu đứng sau nhiều tuyệt tác trăm năm
Sơn dầu khá đơn giản. Về cơ bản thì nó chỉ là một hỗn hợp của dầu và bột màu (pigment). Nhưng tùy thuộc vào màu sắc và chất lượng, một lít sơn này có thể khiến bạn mất từ $285 đến $1,100 (khoảng 6 triệu – 25 triệu VND). Vậy điều gì làm cho loại sơn này trở nên đặc biệt? Và tại sao nó lại đắt đến như thế?
Bài viết là phần lời từ video A liter of oil paint can cost $1,100 — here’s why it’s so expensive, một phần trong series So Expensive giải thích về những thứ đắt đỏ trên thế giới của trang Business Insider.
Tác giả: Leon Siciliano
Sơn dầu đã được dùng hàng trăm năm qua. Nó được làm từ một loại dầu khô, như hạt lanh (flaxseed), cùng với bột màu đôi khi có lẫn bột độn (fillers) và chất làm đặc (thickeners) đã được pha hỗn hợp. Khi trộn và nghiền, các thành phần này liên kết và dày lên để tạo thành một lớp sơn lâu bền.
Trong khi sự trỗi dậy của sơn dầu gắn liền với thời Phục hưng, những bức tranh sử dụng dầu hạt anh túc (poppy-seed oil) đã có từ thời thế kỉ thứ 7 tại Afghanistan. Nhưng có một lý do chính khiến loại sơn này chưa bao giờ rẻ: Các loại bột màu tốn rất nhiều tiền.
Tegen Hager-Suart – chuyên gia về màu làm việc tại tiệm họa cụ Jackson (Anh) – cho biết:
“Với một loại màu sơn dầu tốt, bạn sẽ tìm kiếm những sản phẩm có hàm lượng bột màu cao với chất lượng tốt. Vì vậy, vấn đề không nằm ở chuyện sản phẩm có vô số bột màu – mà về chất lượng thì bạn cần những loại bột màu với chất lượng cao. Bạn tìm kiếm độ bền ánh sáng (lightfastness) để màu không bị phai, và các thử nghiệm về độ bền ánh sáng đã được thực hiện trong nhiều thế hệ; trên thực tế là đã có đối với một số bột màu. Để từ đấy, bạn không tạo ra một kiệt tác mà sau 50 năm nữa, nó hoàn toàn bị phai nhòa.”
Sơn dầu với chất lượng cao nhất có thể chứa tới 75% sắc tố màu (hay bột màu). Trong suốt lịch sử, các sắc tố màu được săn lùng nhiều nhất có giá trị hơn nhiều so với trọng lượng của chúng nếu tính bằng vàng.
Và đó là vì nó cần rất nhiều công sức để tìm kiếm và thực hiện.
Màu sắc hoàng gia yêu thích trong thời La Mã, màu tím Tyrian (Tyrian purple), là một sắc tố tươi sáng được tạo ra từ các tuyến của ốc biển. Nó có thể mất 12.000 con ốc để tạo ra chỉ 2 gram màu.
Màu vàng Ấn (Indian yellow) ban đầu được làm từ nước tiểu của những con bò chỉ được cho ăn mỗi lá xoài.
Và trong thế kỷ 16 đến 19, màu nâu xác ướp (mummy brown) thật sự được tạo ra bởi phần còn lại của xác ướp Ai Cập. Và trong khi màu này hoàn hảo cho một số tông màu da, ta cũng nhanh chóng cạn kiệt nguồn màu ấy.
Tegen Hager-Suart tiếp tục cho biết:
“Điều này thật sự thú vị. Mọi người thường không nhận ra rằng hầu hết tên gọi của màu sắc không hề mang tính ngẫu nhiên. Việc này không giống như khi bạn đi vào một cửa hàng sơn và bạn biết bạn có màu xanh vỏ trứng hoặc thứ gì đó tương tự, bạn chỉ có tên của từng màu. Mỗi tên của màu sắc cho bạn biết về lịch sử của nó, cách nó được tạo ra hoặc quá trình thực hiện.”
Có lẽ giá trị nhất là màu ultramarine, có nghĩa là “ngoài biển khơi” (beyond the sea), vì nó phải được khai thác ở Afghanistan. Nó được làm từ ngọc lưu ly (lapis lazuli), ở dạng sắc tố tinh khiết nhất vẫn có thể lên tới 30.000 USD mỗi kg. Đá quý thường được sử dụng để làm bột màu cho đến khi một phiên bản tổng hợp được tạo ra vào năm 1826. Màu xanh rực rỡ này được đánh giá rất cao trong thời Phục hưng đến nỗi nó thường được dành để vẽ áo choàng của Trinh Nữ Maria.
Các sản phẩm bột màu tổng hợp (synthetic) đã được tạo ra; trong khi điều này có nghĩa là màu rẻ hơn, một số chúng vẫn có thể khó sản xuất. Ví dụ như màu xanh coban, nó được tạo ra bằng cách làm nóng các thành phần đến 1.200 độ C. Vì vậy, các màu khác nhau thường có mức giá chênh lệch nhau.
Dù bạn đã có các bột màu thì vẫn khá lắt léo để tạo ra màu cho việc sử dụng. Winsor & Newton đã sản xuất sơn dầu trong gần 200 năm và nhà máy của họ ở Pháp sản xuất hơn 100 màu.
Dominique Murzeau – Tổng Quản lý của Colart le Mans (công ty mẹ của Winsor & Newton) giải thích:
“Sản xuất màu giống như việc nấu ăn vậy. Đầu tiên bạn có hỗn hợp màu, sau đó là mài sơn nhiều lần. Chúng tôi có ba loại con lăn: nhôm, thép và đá granit. Sau đó là thử nghiệm để xem độ bám (viscosity) của hạt màu.”
Tegen Hager-Suart thêm vào:
“Toàn bộ quá trình được chọn lọc vô cùng kĩ lưỡng. Vì vậy, đối với mỗi sắc tố màu đơn lẻ, cần phải xử lý nó theo một cách riêng. Thế nên ta sẽ cần một lượng dầu cụ thể cho chúng, và tỷ lệ đó thay đổi cho mỗi loại.
Ta sẽ cần phải mài đến một độ mịn cụ thể, có thể là thô hoặc mịn hơn một chút. Và thực tế, ngay cả với cùng một loại bột màu, việc xay và mài sẽ ảnh hưởng đến màu sắc. Nếu bạn nghiền quá lâu, thứ bạn có sẽ là một màu với độ sẫm hơn hoặc với màu khác, nếu bạn nghiền tốt thì nó sẽ có màu tím thay vì màu xanh.
Việc nghiên cứu và thử nghiệm cho những màu sắc này có thể mất vài tháng để có độ chính xác như ý muốn. Các mẫu (sample) nhỏ của mỗi màu được thực hiện trong phòng thí nghiệm để đo tính nhất quán và độ bền sáng.
Trên hết, chất lượng màu cần phải chính xác, vì các họa sĩ chuyên nghiệp cần sự đảm bảo rằng những gì họ đang làm sẽ tồn tại hàng trăm năm nữa. Mặc dù hiện có các loại sơn tương đối mới như acrylic thì sơn dầu vẫn là ‘con cưng’ của các họa sĩ.
Tegen Hager-Suart kết luận:
“Màu dầu được sử dụng cho mọi loại tranh từ thế kỷ 15 đến nay. Ý tôi muốn nói đến bất cứ điều gì từ các bậc thầy Hà Lan thời kỳ đầu cho đến những người theo trường phái Ấn tượng, chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng hay chủ nghĩa Siêu thực – nó hiện vẫn là một phong trào thật sự quan trọng.
Chúng ta vẫn có những tác phẩm màu dầu đẹp và phù hợp với thời đại từ thế kỷ 15 – chúng có sự bền bỉ, có khả năng chồng màu cũng như cạo bớt đi, ta vẫn luôn có thể tiếp tục làm việc với chúng.
Bạn có thể làm việc trên một tác phẩm trong nhiều năm và tiếp tục miệt mài bắt đầu lại như thế, điều này tạo nên lịch sử riêng cho từng tác phẩm. Và bạn biết đấy, bản thân vật liệu khá đắt đỏ. Vì chúng đáng tin cậy. Chúng tuyệt đẹp. Ý tôi là, chúng có thể vươn ra khỏi bức tranh bởi vì bạn.”
Nguồn: Business Insider